Bài đã được đăng trên VietNamNet: “Hơn 9.000 giáo sư sao không có bằng sáng chế?“. Tít do phóng viên của VietNamNet giật. Số 9000 là bao gồm cả giáo sư và phó giáo sư; tuy nhiên, gọi chung “9000 giáo sư” cũng ok. Thông thường các nước người ta dùng danh xưng professor (giáo sư) cho cả ba hạng professor: assistant professor, associate professor, full professor.
Một chỉ số quan trọng và khách quan để đánh giá thành tựu khoa học của một nước là số bằng sáng chế. Số bằng sáng chế không chỉ phản ánh hiệu quả thực tiễn của các kết quả nghiên cứu lý thuyết, mà còn cho biết tiềm lực về nghiên cứu ứng dụng. Thực tế cho thấy những nước có nhiều bằng sáng chế thì thường xuất khẩu những sản phẩm công nghệ cao và thu được nhiều lợi nhuận.
Bằng sáng chế là hình thức sở hữu trí tuệ. Nó bao gồm một tập hợp các quyền độc quyền được cấp bởi một nhà nước có chủ quyền cho một nhà phát minh, hoặc nhận chuyển nhượng của họ trong một khoảng thời gian giới hạn để đổi lấy việc công bố công khai một kết quả sáng chế. Trong bài viết này, người viết chỉ đề cập bằng sáng chế Mỹ (US patent) bởi uy tín của nó.
Để bảo đảm tính “khách quan”, người viết không thống kê số bằng sáng chế Mỹ của chính nước Mỹ. Bài viết chỉ đề cập số bằng sáng chế Mỹ trong năm 2011, và được trích lục từ Văn phòng thương hiệu và bằng sáng chế Mỹ (USPTO). Dữ liệu về dân số và thu nhập được lấy từ BBC.
Theo thống kê, Nhật Bản là nước đứng đầu với 46139 bằng sáng chế, kế đến là Hàn Quốc với 12262 bằng sáng chế. Điều đáng lưu ý là Trung Quốc được xếp thứ 8 với 3174 bằng sáng chế; trong năm 2010, Trung Quốc cũng được xếp thứ 8 với 2657 bằng sáng chế.
Nhóm 10 nước dẫn đầu (trừ Mỹ):
Hạng
|
Nước
|
Dân số (triệu)
|
Số bằng sáng chế 2011
|
1
| Nhật Bản |
126.9
|
46139
|
2
| Hàn Quốc |
48.9
|
12262
|
3
| Đức |
82.1
|
11920
|
4
| Đài Loan |
23
|
8781
|
5
| Canada |
34.3
|
5012
|
6
| Pháp |
62.6
|
4531
|
7
| Vương Quốc Anh |
62.4
|
4307
|
8
| Trung Quốc |
1350
|
3174
|
9
| Israel |
7.3
|
1981
|
10
| Úc |
21.5
|
1919
|
(Trung Quốc: không tính Hồng Kông và Ma Cao)
Trong khu vực Đông Nam Á, đất nước nhỏ bé Singapore với 4.8 triệu dân có 647 bằng sáng chế (một đất nước xa xôi ở Bắc Âu với dân số tương đương, Phần Lan với 5.3 triệu dân cũng có 951 bằng sáng chế). Đứng thứ hai là Malaysia với 161 bằng sáng chế. Trong khi đó, Việt Nam không có bằng sáng chế nào đăng kí ở Mỹtrong năm 2011.
Nhóm vài nước Đông Nam Á:
Hạng
| Nước |
Dân số (triệu)
|
Số bằng sáng chế 2011
| |
1
| Singapore |
4.8
|
647
| |
2
| Malaysia |
27.9
|
| |
3
| Thái Lan |
68.1
|
| |
4
| Philippines |
93.6
|
| |
5
| Indonesia |
232
|
| |
6
| Brunei |
0.407
|
1
| |
7
| Việt Nam |
89
|
|
Trong bối cảnh Việt Nam phải hội nhập với thế giới bên ngoài về mọi mặt, đặc biệt là về khoa học và công nghệ, kết quả thống kê trên thật sự đáng ngại cho khoa học Việt Nam. Chia sẽ vấn đề này, PGS. Phạm Đức Chính(Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam) cho biết: “Nghiên cứu cơ bản của Việt Nam chúng ta so sánh trong khu vực, trên cơ sở thống kê công bố quốc tế ISI, thua kém khá xa so với Singapore, Malaysia, và Thái Lan. Nhưng về mặt công nghệ, ứng dụng thì tình hình còn tệ hơn, như theo một chỉ số quan trọng mà thống kê này cho thấy. Nếu như cứ cho rằng tiềm năng thực của chúng ta không tệ tới mức như vậy, thì năng lực hội nhập của chúng ta lại còn yếu hơn nữa. Mà yếu tố sống còn và đi lên của Việt Nam, đặc biệt trong bối cảnh mọi mặt hiện nay, là chúng ta phải hội nhập được với thế giới.”
Tuy nhiên, một thực tế là vấn đề tác quyền ở Việt Nam chưa được xem trọng một cách đúng mức. GS. Nguyễn Đăng Hưng (nguyên Trưởng khoa Cơ học phá hủy, Đại học Liège, Bỉ) chia sẽ: “Tôi không ngạc nhiên về những con số thống kê mà các tác giả đã có công tra cứu tham khảo. Bằng sáng chế là thước đo đẳng cấp công nghệ kỹ thuật của một nước. Việt Nam kém cỏi về công bố quốc tế về khoa học. Nhưng tụt hậu về khâu công nghệ kỹ thuật, không có bằng sáng chế đăng ký thì quả là trầm trọng hơn. Than ôi nó là con số không to tướng sau 37 năm hòa bình phát triển kinh tế (số không trong năm 2011 – NV). Nhưng thử hỏi làm sao có được? Tại Việt Nam tôi chưa thấy một chính sách cụ thể nào nhằm khuyến khích người dân sáng chế hay phát triển sử dụng những sáng chế nếu có! Kinh tế chỉ phần lớn chung quanh khai thác dầu thô, nông sản, gia công cho các công ty nước ngoài. Quả đấm thép tập trung vốn nhà nước lên đến hàng tỷ đô la như VINASHIN cũng chỉ đại bộ phận là mua tàu cũ, đóng ráp tàu theo thiết kế nước ngoài…
Tôi đã từng được các nhà sáng chế Việt Nam tiếp xúc và nhờ tôi hỗ trợ để hoặc khoa học hóa sáng chế hay tìm giúp cho có nhà tài trợ quốc tế bỏ vốn sử dụng sáng chế. Họ tìm đến tôi vì hằng chục năm họ không có được hỗ trợ nào về phía nhà nước. Thí dụ điển hình nhất là nhà sáng chế mãng bê tông chống sạt lở của TS. Phan Đức Tác. Kỹ thuật gia này đề xuất một hướng giải quyết rất hữu hiệu trong việc chống xâm thực bờ biển bờ sông. Hàng chục năm trời ông ta chỉ dựa vào sức mình với sự hỗ trợ của người vợ hiền xây dựng mô hình thí nghiệm ngay tại nhà. Nhờ lòng kiên nhẫn và niềm đam mê bền bĩ, ông ta đã đem ra sử dụng sáng chế này ở vài nơi (Hải Phòng, Mủi Né, Long Xuyên…). Kết quả thật là thuyết phục. Sau những cơn bão lớn những kè khác bị phá hủy, hư hại nhưng kè dùng các mãng “Cục Tác” vẫn bền vững qua năm tháng. Thế mà cho đến hôm nay, sáng chế của TS Tác vẫn chưa được các sở bộ chuyên ngành nhà nước chính thức thẩm định và sử dụng với thù lao thỏa đáng cho nhà sáng chế… Sáng chế thiết thực và hữu ích cho đất nước như thế mà vẫn coi như con ghẻ thì làm sao có thể phát triển nhân rộng các bằng sáng chế?”
Đã đến lúc các nhà quản lí khoa học ở Việt Nam phải nhìn nhận lại thực tế yếu kém của khoa học Việt Nam, đặc biệt là các khoa học ứng dụng. So với các nước trong khu vực thì Việt Nam có số lượng tiến sĩ rất lớn, nhưng thành tựu khoa học của Việt Nam, cụ thể là số bằng sang chế đăng ký ở Mỹ, quá yếu kém như thế thì quả là một thực tế khó chấp nhận. Đã đến lúc, Nhà nước và các nhà khoa học phải có một nhận thức chung về nguyên nhân và cách khắc phục sự yếu kém trên. Là người có nhiều nghiên cứu về khoa học Việt Nam nên GS. Nguyễn Văn Tuấn (Viện nghiên cứu Y khoa Garvan và ĐH New South Wales) đã lên tiếng: “Tôi không ngạc nhiên với số bằng sáng chế của Việt Nam được đăng kí ở Mĩ. Trong một bài trước đây, tôi trích dữ liệu từ báo cáo của UNESCO cho thấy trong thời gian 2000-2007, các nhà khoa học Việt Nam chỉ đăng kí được 19 bằng sáng chế, tức mỗi năm trung bình chỉ 2 bằng sáng chế. Có năm (như 2002) không có bằng sáng chế nào được đăng kí. Do đó, năm 2011 không có bằng sáng chế từ Việt Nam được đăng kí cũng có thể xem là chuyện … bình thường.
Nhưng một điều không bình thường là với một đội ngũ trên 9000 giáo sư và phó giáo sư, và hàng trăm ngàn tiến sĩ và thạc sĩ mà không có bằng sáng chế đăng kí. Càng không bình thường khi chúng ta so sánh với Thái Lan (có ít giáo sư và tiến sĩ hơn ta) khi trong cùng thời gian 2000-2007 đã có đến 310 bằng sáng chế. Có thể nói rằng trong các nước Đông Nam Á (ngoại trừ Lào, Kampuchea và Miến Điện) Việt Nam có số bằng sáng chế thấp nhất.
Nhưng tôi nghĩ con số bằng sáng chế không có nghĩa là khả năng sáng tạo của người Việt thấp. Tôi nghĩ khả năng sáng tạo của người Việt không kém bất cứ ai; chỉ cần nhìn qua sự thành công của các chuyên gia gốc Việt ở nước ngoài thì biết nhận xét đó không quá đáng. Tôi nghĩ con số đó phản ảnh khả năng hội nhập khoa học và công nghệ của Việt Nam chưa cao, và thiếu tầm trong quản lí khoa học. Trong thực tế, các nhà lãnh đạo khoa học ở Việt Nam chưa quan tâm đến vấn đề đăng kí bằng sáng chế, vì họ vẫn còn loay hoay với những thủ tục hành chính (như “nghiệm thu” chẳng hạn). Có người còn chưa biết thủ tục để đăng kí ra sao!
Cũng cần nói thêm rằng Việt Nam chưa có một cơ chế để hỗ trợ và phụ trách đăng kí sáng chế. Theo tôi biết, Việt Nam còn thiếu những luật sư có kinh nghiệm trong việc đăng kí bằng sáng chế và sở hữu trí tuệ. Nhà khoa học thì chắc chưa chắc có khả năng tài chính để tự đăng kí, mà dù cho có khả năng tài chính thì không có luật sư cũng khó làm được. Trong khi đó, các đại học còn chưa quan tâm đến nghiên cứu khoa học, thì họ đâu có thì giờ quan tâm đến việc đăng kí bằng sáng chế.
Nhưng một cách khách quan mà nói, nhiều nghiên cứu khoa học (tôi chỉ nói trong lĩnh vực y khoa) thường tập trung vào những chủ đề khó có thể đăng kí bằng sáng chế. Nghiên cứu y khoa thường chia thành 3 loại: me too,incremental knowledge, và breakthrough. Nghiên cứu me too (bắt chước) có nghĩa là những nghiên cứu bắt chước người khác ở môi trường Việt Nam, không cho ra một phương pháp hay phát hiện gì mới, chủ yếu là để học nghề. Nghiên cứu mang tính incremental knowledge là những nghiên cứu có đóng góp vào tri thức khoa học, nhưng mức độ đóng góp tương đối khiêm tốn (như phát triển phương pháp mới, phát hiện mới, cách tiếp cận mới, v.v.). Các công trình breakthrough hay đột phá có nghĩa là những nghiên cứu định ra một trường phái mới, định nghĩa một lĩnh vực mới. Hầu hết những nghiên cứu từ Việt Nam là me too nên khó có thể phát triển cái gì mới để có thể đăng kí bằng sáng chế.
Những lí do trên có thể giải thích tại sao Việt Nam chúng ta có mặt rất khiêm tốn trong bản đồ sáng tạo tri thức mới và bằng sáng chế.”
Nguồn: TS. Lê Văn Út – TS. Thái Lâm Toàn, Post lại từ Blog của TS. Út